Ông Hải cho rằng, thực tế phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam trong 10 năm qua chủ yếu theo hàng ngang, nhưng hiện nay cần sự phát triển theo chiều dọc. Các dịch vụ ngân hàng phải phát triển sâu hơn nữa gắn với yêu cầu của doanh nghiệp và người dân. Từ đó, đòi hỏi nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực về kỹ năng quản lý, quản trị ngân hàng. "Chính phủ cũng cần tạo ra một môi trường pháp lý giúp cho nhu cầu này phát triển hiệu quả", ông Hải nói.
Theo ông Hải, việc Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất cơ bản và điều chỉnh tỷ giá là phản ứng tốt và cần phải làm để giảm áp lực lên thị trường tiền tệ. Điều đó tạo lòng tin cho người dân đang có những khoản tiền tiết kiệm tiền đồng. Hiện có sự khác biệt lớn giữa lãi suất VND và USD, chênh lệch khoảng 7%. Nhưng về lâu dài mối quan ngại vẫn là tỷ giá hối đoái. Chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam cần linh hoạt hơn.
Ông Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đặc biệt quan tâm đến tính dự đoán được của nền kinh tế chứ không riêng ngành ngân hàng. Đó là sự dự báo được về các kế hoạch hành động của Chính phủ, đồng thời cách tiếp cận cũng cần mang tính định lượng chứ không phải định tính. Ngày nay rất khó để có những thông tin thị trường chính xác và đầy đủ, nên hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường tương đối bị động. Vì vậy, thời gian tới cần thiết có cơ chế công bố thông tin minh bạch về chính sách nhà nước, để doanh nghiệp và ngân hàng có thể dự đoán được những gì sẽ xảy ra từ đó đưa ra quyết định chính xác.
Ông Hải nhấn mạnh, điểm lớn nhất mà các ngân hàng muốn có được là Ngân hàng Nhà nước sẽ hỗ trợ, tạo ra cơ hội và thực hiện những cơ hội đó để đạt được kết quả trong hoạt động kinh doanh. Thực tế, trong giai đoạn khủng hoảng, rất nhiều nền kinh tế bị ảnh hưởng, nhưng trong cuộc khủng hoảng vẫn có những ngành và doanh nghiệp được hưởng lợi. Do đó, cần phải nhìn khủng hoảng như một cơ hội để tận dụng cho sự phát triển của mình. Tuy nhiên, cũng rất cần sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ phía Ngân hàng Nhà nước.
Vị Tổng giám đốc ACB đưa ra triết lý về thành công cần ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Trong thời gian gần đây, có thể thấy lượng vốn đầu tư đã chuyển từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Việt Nam ở trung tâm của châu Á, khu vực Thái Bình Dương và sẽ có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế thế giới. Điều này hoàn toàn hợp lý vì nước ta có nhiều lợi thế về thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Việt Nam vẫn là điểm đầu tư hấp dẫn với nhiều cơ hội và khả năng sinh lời cao.
Theo ông Hải, thị trường Việt Nam có nhiều rủi ro mà bất kỳ nước nào cũng có. Nhưng có 2 rủi ro đặc thù và khó dự đoán. Thứ nhất là về tỷ giá hối đoái, Việt Nam không thể tự quản lý được tỷ giá hối đoái mà phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của các quốc gia khác, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam là nước tương đối mở cửa với 80% GDP là xuất khẩu. Vì vậy, bất kỳ sự thay đổi chính sách tiền tệ của quốc gia nào cũng có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, nền kinh tế và khu vực ngân hàng đang phát triển rất nhanh nên nguồn nhân lực không phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và ngành ngân hàng. Nhất là năng lực của nguồn nhân lực để có thể quản lý điều hành. Đối với ngân hàng nội địa, đây là 2 rủi ro đặc thù phải đối mặt.
Ông Hải nhấn mạnh, Việt Nam có 86 triệu dân nhưng mới chỉ có 10 triệu tài khoản ngân hàng. Như vậy có thể thấy tiềm năng phát triển dịch vụ của ngành ngân hàng còn rất lớn.Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong 10 năm qua tăng trưởng khoảng 10 lần. Đây là tốc độ tăng trưởng nhanh và quy mô của hệ thống cũng rất lớn, yêu cầu phải có tốc độ phát triển mới.
Cuộc cải cách ngành ngân hàng dựa vào chính sách đổi mới của đất nước từ năm 1990 đến nay đã có những tiến bộ rất lớn về pháp lý và môi trường đầu tư. Ngành ngân hàng không thể phát triển được, nếu như không có những công ty mang tính cạnh tranh mạnh mẽ đang hoạt động trong một môi trường kinh doanh hiệu quả. Nhưng trong thời gian tới, theo ông Hải, Việt Nam cần phải có Luật Ngân hàng mới, phù hợp với chiến lược ngành ngân hàng cũng như dự báo được viễn cảnh phát triển.
(Nguồn ACB)